Theo cơ quan dự báo khí tượng thủy văn, ENSO có khả năng tiếp tục duy trì ở trạng thái La Nina và lượng mưa trên lưu vực sông Mê Công trong tháng 01/2023 sẽ ở mức thấp hơn hoặc tương đương với giá trị TBNN. Mực nước tại các trạm thượng nguồn như Chiềng Sẻn, Chiềng Không đang có xu thế tăng nhẹ nhưng các trạm vùng trung lưu là Noọng Khai, Pắc Sế sông Mê Công đang có xu thế giảm, các hình thái thời tiết gây mưa trên lưu vực không nhiều và cường độ mưa tiếp tục có xu thế giảm, dòng chảy trên dòng chính Mê Công sẽ tiếp tục giảm và do vậy dòng chảy tại trạm Kra-chê trong tháng 01/2023 sẽ có khả năng đạt ở mức tương đương hoặc thấp hơn mức TBNN khoảng 20-25% (dao động từ 8 tỷ m3 đến 9 tỷ m3), tuy nhiên lượng nước trữ ở Biển Hồ vẫn ở mức cao hơn TBNN. Kết hợp các thông tin trên với dự báo triều, tài nguyên nước tới Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng 01/2023 được nhận định thấp hơn TBNN cụ thể như sau:
a. Nhận định diễn biến dòng chảy tại Tân Châu và Châu Đốc
Mực nước lớn nhất ngày tại trạm Tân Châu trong tháng 01/2023 biến động theo dao động của thủy triều triều trong khoảng từ 1,3 đến 1,9m (Xem hình dưới).
Hình: Dự báo mực nước lớn nhất tại trạm Tân Châu trong tháng 01/2023
Tổng lưu lượng trung bình ngày tới Đồng bằng sông Cửu Long qua hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trong tháng 01/2023 được nhận định là sẽ biến động theo xu hướng giảm dần từ khoảng 8.400 m3/s xuống 5.800 m3/s (Xem hình dưới).
Hình: Dự báo lưu lượng tới hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trong tháng 01/2023
Tổng lượng dòng chảy trong tháng 01/2023 qua hai trạm này có thể sẽ ở mức từ 17,8 tỷ m3 đến 19,1 tỷ m3, ở mức thấp hơn với giá trị cùng kỳ TBNN và năm 2022 khoảng 4% đến 6% (Xem hình dưới).
Hình: Dự báo tổng lượng dòng chảy tại hai trạm Tân Châu và Châu Đốc trong tháng 1/2022
b. Nhận định xâm nhập mặn
Trên cơ sở kết quả dự báo dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long và dự báo triều tháng 01/2023, đường ranh mặn 1g/l vào sâu nhất trên ba nhánh sông lớn là sông Hậu, sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây dự kiến vào sâu hơn từ 7-9 km so với TBNN, sâu hơn so với xâm nhập mặn cùng kỳ tháng 01/2022 từ 4-6 km (Xem chi tiết ở Bảng 2, và Bản đồ 2 – Phụ lục 2).
Bảng 2. Nhận định xâm nhập mặn (ranh mặn 1g/l) vào sâu nhất tháng 01/2023
Tương tự, đường ranh mặn 4g/l trên ba nhánh sông vào sâu hơn so với trung bình nhiều năm từ 8-11 km, và sâu hơn so với tháng 01/2022 từ 4-7 km (Chi tiết Xem Bảng 3, và Bản đồ 3 – Phụ lục 2).
Bảng 3. Nhận định xâm nhập mặn (ranh mặn 4g/l) vào sâu nhất tháng 01/2023
Theo như các phân tích ở trên, nền dòng chảy đầu mùa khô năm 2023 đã bắt đầu thấp hơn TBNN, từ thời gian này, mặn sẽ xâm nhập mạnh hơn vào trong nội đồng. Mặn xâm nhập sâu nhất trong tháng 01/2023 sẽ trong khoảng từ ngày 06-10/01 và ngày 21-25/01, do đó các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng mặn cần theo sát các thông tin giám sát mặn và các bản tin dự báo xâm nhập mặn để vận hành công trình ngăn mặn phù hợp tranh thủ lấy nước trữ vào trong hệ thống kênh rạch.
Do nguồn nước về sẽ ngày càng khan hiếm hơn trong mùa khô, đề nghị các địa phương lên kế hoạch lấy nước luân phiên trên các sông kênh, nhằm tránh hiện tượng cạn kiệt cục bộ, dẫn đến xâm nhập mặn có thể sâu hơn.
Các các huyện thường xuyên bị nhiễm mặn bao gồm: Tân Trụ, Bến Lức, Thủ Thừa, Cần Đước, Cần Giuộc, Thạnh Hóa và Tp. Tân An (Tỉnh Long An); Gò Công Đông, Gò Công Tây, Thị xã Gò Công, Chợ Gạo, Tân Phú Đông (Tỉnh Tiền Giang); Ba Tri, Bình Đại (Tỉnh Bến Tre); Cầu Ngang, Trà Cú, Tiểu Cần, Châu Thành (Tỉnh Trà Vinh); Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Ngã Năm (Tỉnh Sóc Trăng); Vĩnh Lợi, Hòa Bình, Phước Long (Bạc Liêu); Vĩnh Thuận, An Biên, Hòn Đất, Giang Thành (Tỉnh Kiên Giang) và các huyện Long Mỹ, Vị Thủy, Ngã Bảy, Vị Thanh (Tỉnh Hậu Giang).